''Sự phát triển của doanh nghiệp gắn liền với nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ''
Trong giai đoạn 2001-2005, Tổng công ty đã thực hiện 4 dự án sản xuất thử nghiệm cấp nhà nước. Xin ông cho biết lý do và kết quả nổi bật của các dự án này?
Là một đơn vị sản xuất-kinh doanh, vấn đề sản xuất cái gì và bán cho ai luôn là trăn trở chính, xuyên suốt trong quá trình hoạt động của đơn vị. Với năng lực của mình, Tổng công ty đã chọn con đường nghiên cứu, chế tạo những thiết bị, máy móc thiết yếu phục vụ cho ngành và xã hội mà các đơn vị khác trong nước chưa sản xuất được.
Giai đoạn 2001-2005 nhờ những nỗ lực, cố gắng bám sát yêu cầu thực tế sản xuất, Tổng công ty đã tham gia đấu thầu các dự án KH&CN cấp nhà nước và đã trúng thầu 4 trong số 12 dự án thuộc Chương trình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ chế tạo máy (KC.05), gồm: Hoàn thiện công nghệ chế tạo bơm nước cỡ lớn (36.000m3/h); Sản xuất thử nghiệm máy bơm chìm công suất N=37;55 và 75 kW phục vụ nông nghiệp; Hoàn thiện thiết kế và công nghệ chế tạo hệ thống xi lanh thuỷ lực dùng cho thiết bị đóng mở các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện; Hoàn thiện thiết kế và công nghệ chế tạo thử nghiệm hai loại động cơ điện chìm có công suất 37 kW và 55 kW dùng cho bơm chìm.
Trên thực tế, trong những năm qua, khi sản xuất nông nghiệp càng phát triển thì nhu cầu về các loại máy bơm tưới, tiêu càng nhiều về số lượng và đa dạng về chủng loại. Trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền kinh tế công nghiệp phát triển thường sử dụng các loại bơm chìm vì tính ưu việt hơn hẳn của nó, còn ở nước ta thì rất hạn chế vì giá thành cao do phải nhập ngoại. Từ hai đề tài Nghị định thư thực hiện với Hunggary: "Hợp tác nghiên cứu chế tạo máy bơm chìm công suất lớn cho nông nghiệp" và "Hợp tác nghiên cứu thiết kế và chế tạo động cơ điện chìm lắp với máy bơm chìm công suất N=37 kW phục vụ nông nghiệp" được thực hiện trong các năm 2001-2002 và 2003-2004, Tổng công ty đã mạnh dạn tham gia đấu thầu và được tuyển chọn thực hiện dự án Sản xuất thử nghiệm máy bơm chìm công suất N=37;55 và 75 kW phục vụ nông nghiệp và Hoàn thiện thiết kế, chế tạo thử nghiệm hai loại động cơ điện chìm có công suất 37 kW và 55 kW dùng cho bơm chìm. Qua việc thực hiện, Tổng công ty đã thành lập được một dây chuyền sản xuất máy bơm chìm, chủ động từ khâu thiết kế đến chế tạo. Sản phẩm đã được ứng dụng vào sản xuất ở nhiều địa phương, triển vọng nhân rộng rất lớn vì giá thành chỉ bằng 60-70% giá nhập khẩu nhưng chất lượng tương đương.
Hoàn thiện thiết kế và công nghệ chế tạo hệ thống xi lanh thuỷ lực dùng cho thiết bị đóng mở các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện là một dự án trọng điểm trong chiến lược phát triển của Tổng công ty giai đoạn 2000-2010. Dự án đã mang lại hiệu quả vô cùng to lớn đối với Tổng công ty, tạo ra một sản phẩm mũi nhọn, công nghệ cao, giá trị lớn, đáp ứng đúng những nhu cầu bức xúc của các ngành công nghiệp. Cụ thể, đã đầu tư xây dựng một dây chuyền sản xuất xi lanh hiện đại và một đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ cao, chuyên sâu, tăng doanh thu của Tổng công ty lên hàng trăm tỷ đồng mỗi năm.
Về giá trị KH&CN, thông qua việc thực hiện các dự án cấp nhà nước, Tổng công ty đã hoàn toàn làm chủ được công nghệ thiết kế, chế tạo, lắp đặt, vận hành, sử dụng cũng như thử nghiệm chất lượng xi lanh thuỷ lực cỡ lớn cho các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện, máy xây dựng, công nghiệp chế tạo thép, công nghiệp ô tô, tàu thuỷ, công nghiệp khai thác than, giao thông... Thông qua đó, Tổng công ty hoàn toàn chủ động trong việc sản xuất, cung cấp các thiết bị cho các công trình trong nước với chất lượng tương đương sản phẩm nhập ngoại, giá thành hạ. Đặc biệt, từ thành công của dự án Hoàn thiện thiết kế và công nghệ chế tạo hệ thống xi lanh thuỷ lực dùng cho thiết bị đóng mở các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện; Tổng công ty đã mạnh dạn nghiên cứu, sản xuất thiết bị thuỷ lực có sức nâng 400 tấn phục vụ kịp thời cho công trình thuỷ điện Sơn La. Kết quả đã thành công. Việc chế tạo thành công thiết bị thuỷ lực có sức nâng 400 tấn sử dụng cho công trình thuỷ điện Sơn La đã mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rất lớn, làm lợi cho Nhà nước khoảng 100 tỷ đồng, đẩy nhanh tiến độ thi công công trình từ 1,5-2 năm. Việc đẩy nhanh tiến độ thi công công trình thuỷ điện Sơn La mang lại lợi ích kinh tế - xã hội rất to lớn. Đồng thời thiết bị này làm thay đổi phương pháp thi công của các nhà thầu, bởi vì trước đây các thiết bị nâng hạ cửa van (dùng cho chặn dòng) chỉ sử dụng được một lần duy nhất thì nay đã có thể sử dụng lại nhiều lần cho các công trình khác nhau.
Việc thực hiện thành công các dự án đã góp phần giúp Tổng công ty đạt mức tăng trưởng khoảng 20%/năm, tạo ra sản phẩm mới thay thế nhập khẩu và tạo việc làm cho nhiều công ty cơ khí trong nước. Thông qua đó, có thể nói rằng, sự phát triển của Tổng công ty gắn liền với nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Ông đánh giá thế nào về tác động của các dự án sản xuất thử nghiệm cấp nhà nước giai đoạn vừa qua?
Thứ nhất, đã hoàn thiện được công nghệ, hình thành được các dây chuyền chế tạo các sản phẩm chiến lược của Tổng công ty, đặc biệt tính khả thi và sức sống của những dây chuyền này rất cao bởi khả năng áp dụng vào thực tiễn của các sản phẩm là rất lớn. Ngoài việc vừa hoàn thiện công nghệ thiết kế, quy trình công nghệ chế tạo, trong thực hiện các dự án còn có phần việc nghiên cứu tối ưu vật liệu chế tạo để tăng tuổi thọ, sức bền, giảm giá thành sản phẩm. Chính vì vậy, một vấn đề vô cùng có ý nghĩa đối với thực hiện các dự án KH&CN đó là tác động tích cực đến kết quả sản xuất - kinh doanh của Tổng công ty.
Thứ hai, quá trình thực hiện các dự án đã giúp nâng cao rõ rệt năng lực thiết kế, chế tạo cũng như trình độ của đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật trong Tổng công ty, tạo điều kiện để Tổng công ty vươn lên giải quyết các vấn đề nghiên cứu sâu, rộng và phức tạp hơn cũng như tự tin hơn vào năng lực của mình.
Thứ ba, các dự án mà Tổng công ty thực hiện đã không dừng lại ở các sản phẩm của chúng mà luôn được phát triển áp dụng sang các ngành, lĩnh vực khác, góp phần giúp Tổng công ty đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao giá trị sử dụng của sản phẩm, tăng doanh thu, tạo thêm công ăn việc làm.
Thứ tư, tuy phần hỗ trợ của Nhà nước còn rất khiêm tốn nhưng đã tạo ra cho Tổng công ty một động lực, một khí thế mới, một phong trào nghiên cứu khoa học bởi hiệu quả của nó cao hơn nhiều so với dự kiến ban đầu. Bên cạnh hiệu quả to lớn đối với sản xuất - kinh doanh của Tổng công ty, các dự án đã mang lại một kết quả vô cùng có ý nghĩa đối với Nhà nước.
Xin ông cho biết một số kinh nghiệm khái quát nhất rút ra từ thành công của Tổng công ty và hướng phát triển của đơn vị trong thời gian tới?
Để hoạt động KH&CN thực sự đóng vai trò thúc đẩy sản xuất của các đơn vị thì có 5 điều cần làm tốt, đó là: 1-Mục đích của đề tài, dự án phải tạo ra sản phẩm có chất lượng tương đương hàng nhập ngoại, giá thành hạ, đáp ứng nhu cầu bức xúc của xã hội, muốn vậy , phải luôn trăn trở, tìm tòi suy nghĩ, bám sát thực tiễn sản xuất cung như nhu cầu cuộc sống; 2-Cập nhật thường xuyên các thành tựu, tiến bộ kỹ thuật của thế giới trong lĩnh vực nghiên cứu, sản xuất - kinh doanh của mình; 3-Đào tạo được đội ngũ cán bộ có chuyên môn sâu, có thể nắm bắt, làm chủ các công việc từ thiết kế đến chế tạo, có lòng đam mê nghiên cứu, sáng tạo; 4-Người lãnh đạo phải là người dám nghĩ, dám làm, dám vượt qua thất bại để đi đến đích cuối cùng; 5- Có kinh phí kịp thời cho việc thực hiện.
Trong giai đoạn trước mắt, định hướng của Tổng công ty là đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm cung cấp cho nhu cầu trong nước, đồng thời hướng mạnh ra thị trường nước ngoài, kể cả các thị trường khó tính như Nhật Bản bằng các sản phẩm cơ khí thuỷ công và xi lanh thuỷ lực. Tiếp tục tham gia các nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước trong giai đoạn 2006-2010 (với các mục tiêu lớn trong chương trình cơ khí trọng điểm của Chính phủ đến năm 2020), cụ thể là nghiên cứu thiết kế và chế tạo đồng bộ các tua bin có công suất 6.000 KW để đáp ứng nhu cầu đang tăng mạnh của các nhà máy thủy điện trong nước và khu vực
Xin cám ơn ông và chúc Tổng công ty thành công hơn nữa.
(Theo Báo Hoạt động Khoa học - Bộ Khoa học và Công nghệ)